Ông chủ Triệu nói, nếu không có sự giúp đỡ của dân đào trộm mộ chuyên nghiệp thì khó hoàn thành được việc lớn, lại cần phải ra tay trước Đồ Hắc Hổ, thời gian rất gấp rút, không còn kịp để tìm người mới, có ý nhờ hội Thôi lão đạo giúp cho một tay, sự việc thành công sẽ hậu tạ.
Thôi lão đạo vừa rồi mới thao thao bất tuyệt, nào là tấm lòng trung nghĩa, nào là hiệp sỹ hào kiệt, thế nên việc lớn vì dân vì nước này không làm sao được? Lão đạo quay sang bàn bạc với Dương Phương và Mạnh Bôn, nói chung chỉ cần là việc làm chống lại Đồ Hắc Hổ thì họ đều đồng tình ủng hộ, huống hồ còn được trả tiền. Hơn nữa tìm một bức tượng nghìn tay nghìn mắt thì có gì là to tát đâu, chỉ cần một mình Dương Phương đi là được, Thôi lão đạo chân cẳng không nhanh nhẹn, Mạnh Bôn sẽ đưa ông qua sông trước, vài bữa nữa cả hội sẽ gặp nhau tại thị trấn Cao Đài phía bắc sông Hoàng Hà.
Ông chủ Triệu thấy Dương Phương đồng ý giúp đỡ thì cảm ơn rối rít, trong lòng nghĩ: “Có được sự giúp đỡ của người này thì một người bằng mười người.”
Hai nhóm người chia tay tại quán, Dương Phương dặn dò Mạnh Bôn: “Huynh đệ, cậu chăm sóc cho đạo trưởng, tôi đi ít hôm rồi về.”
Thôi lão đạo cũng dặn dò: “Lục đệ! Ta thấy thiên thời không được tốt, có khả năng sẽ có họa lớn đấy, mọi người dọc đường phải hết sức cẩn thận. Ngoài ra, tên Đồ Hắc Hổ rất lợi hại, nếu hắn quyết tâm đi tìm tượng Phật thì không chừng sẽ chạm mặt với mọi người, cậu phải chú ý, nhớ lời của ta thà bị đánh trên mặt đất, còn hơn bị chôn dưới lòng đất. Không được hành sự bốc đồng, các cụ đã dạy rồi ‘Bá Vương tự tử ở sông Ngô Giang, Chu Du có tài nhưng mệnh đoản, bao nhiêu anh hùng hào kiệt trước khi xuất trận thì dũng mãnh nhưng cuối cùng cũng thiệt mạng vì bốc đồng’, một khi gặp phải nguy hiểm, ba mươi sáu kế kế chuồn là thượng sách, với bản lĩnh của cậu, thoát thân không phải là khó.”
6
Dương Phương nói: “Đạo trưởng cứ yên tâm, tôi ghi nhớ cả rồi.” Trong lòng lại nghĩ: “Đồ Hắc Hổ mặc dù ghê gớm nhưng đánh tay đôi với mình thì mình cũng chẳng sợ hắn.”
Tại quán ăn, Thôi lão đạo bói cho ông chủ Triệu chữ “Lộ”, cho thấy chuyến đi này không thuận lợi. Lão ta vốn bói mười quẻ có tới chín quẻ sai, chỉ toàn áp dụng mấy trò tiểu xảo giang hồ. Nhưng lăn lộn trong giang hồ lâu năm, lão cũng có khả năng nhìn việc nhìn người rất chuẩn, cảm thấy có việc lớn sắp xảy ra khiến trong lòng bất an, cứ dặn đi dặn lại Dương Phương phải hết sức cẩn thận, sau đó mới cùng Mạnh Bôn qua sông đi về hướng Bắc.
Không nói đến chuyện Thôi lão đạo qua sông thế nào. Còn bốn người bọn Dương Phương, men theo bờ sông đi theo hướng đông, thời đó loạn lạc, đi ra ngoài không dám quá lộ liễu, mọi người phải cải trang thành người dân quê, kéo theo cỗ quan tài, cũng chẳng có ngựa, vì nếu có ngựa sẽ bị quân thổ phỉ giết người cướp của chú ý tới.
Ông chủ Triệu rất quan tâm tới Dương Phương, hỏi: “Nghe đạo trưởng gọi cậu là Dương Phương? Đó là tên thật của cậu?” Dương Phương trả lời: “Tôi chỉ là đứa trẻ mồ côi, chẳng biết bố mẹ ở đâu, làm gì có tên thật. Năm đó, sư phụ tôi đã mua tôi từ nhà họ Phương ở huyện Dương nên đặt tên cho tôi là Dương Phương”. Ông chủ Triệu nói: “Hóa ra là vậy, đúng là anh hùng không cần hỏi xuất thân. Thân thế của Dương huynh đệ có phần giống đứa cháu gái của tôi”. Dương Phương hỏi lại: “Ông chủ Triệu nói vậy là sao?” Đạm Đài Minh Nguyệt nghe nhắc tới tên mình thì vội lên tiếng: “Chú! Chú đừng nói với anh ta”. Ông chủ Triệu trả lời: “Không sao! Dương huynh đệ không phải là người ngoài”, rồi bắt đầu kể: “Đứa cháu gái này của tôi cũng là đứa bé tội nghiệp không có cha mẹ”. Dương Phương hỏi: “Đại tiểu thư cũng không có cha mẹ từ nhỏ?” Ông chủ Triệu gật đầu: “Đúng thế! Chuyện đầu đuôi thế nào đến nó cũng không rõ. Hôm nay nhân tiện tôi sẽ kể cho hai đứa nghe luôn. Chuyện là hai mươi năm trước, thời vẫn còn triều đại nhà Thanh ấy.”
Cuối thời Thanh, ông chủ Triệu vẫn chưa giàu có như bây giờ, để kiếm tiền đi học, đã mạo hiểm theo người Anh vượt biển xuống Nam Hải đầu cơ, không ngờ dọc đường gặp bão suýt chút nữa chìm tàu, cột buồm bị gió đánh đổ, chỉ còn cách lênh đênh trên biển, cho đến khi lương thực và nước đã cạn, sắp bị chết đói thì gặp bọn hải tặc, nhìn thấy bộ quần áo nhà Minh, bọn họ liền kéo thuyền vào một hòn đảo hẻo lánh, trên đảo cây cối um tùm, có một chiếc hang rất lớn, bên trong nhiều nhà cửa, trông giống như một thành trì, ông chủ Triệu bị bọn hải tặc đưa vào phía sâu trong động cùng những tù binh khác. Chỉ thấy bên trong thờ một bức tượng đất, ăn mặc trang phục cổ, đầu đội mũ giáp, đây chính là bức tượng tổ tiên của bọn hải tặc. Trong động, vàng bạc châu báu chất cao như núi, thủ lĩnh bọn hải tặc là người khảng khái, đối xử không tồi với ông chủ Triệu, cho ăn uống đàng hoàng, hỏi thăm ông về tình hình ở nhà, còn kết nghĩa anh em với ông. Một đêm, thủ lĩnh hải tặc mời ông tới một gian nhà đá cùng uống rượu hàn huyên, kể lại lai lịch của chiếc hang động mà quân hải tặc đang cư trú này. Đó là trước khi Bát kỳ thiết giáp của quân Mãn Thanh tràn vào thành, có một đội quân bại trận của nhà Minh, dưới dự thống lĩnh của một vị tổng quan đã tháo chạy ra hoang đảo ngoài biển làm hải tặc. Vị tổng quan đó biết xem phong thủy, nhìn thấy địa thế tuyệt vời của hòn đảo này có thể dùng để chặn cướp tàu của nhà Thanh. Nhưng phụ nữ không được phép ở lại trên đảo quá một năm, nếu không sẽ phá hỏng phong thủy của hòn đảo này, một khi phong thủy bị phá hỏng thì số phận hòn đảo cũng coi như chấm hết. Vì vậy lập ra quy định, những người phụ nữ cướp được về trên đảo, phải giết hết trong vòng một năm, nếu sinh ra con gái cũng phải giết hết, không được để sót, tránh vị trí hòn đảo bị tiết lộ ra ngoài, quân triều đình sẽ tới tiêu diệt đảo. Hai trăm năm sau đó, những người sinh sống trên đảo không ai dám làm trái lời dạy của tổ tiên, truyền tới đời thống lĩnh hải tặc này vẫn vậy. Năm ngoái, bọn hải tặc cướp về được một thiếu nữ có dung mạo tuyệt trần, sau đó cô gái có mang với thủ lĩnh, hai người yêu nhau thực sự, thủ lĩnh hải tặc không nỡ giết người con gái đó, một năm sau cô gái sinh được một bé gái, nếu để bị phát hiện, cả hai mẹ con sẽ bị giết. May mắn lúc đó tàu ông chủ Triệu bị bắt vào đảo. Thấy người này tác phong khác người, hẳn không chịu khuất phục người khác, liền kết nghĩa anh em, còn tặng nhiều vàng bạc, sửa sang lại con tàu của ông chủ Triệu, nhờ ông đem vợ con chạy trốn khỏi đảo. Không ngờ trong lúc chạy trốn lại bị quân hải tặc phát hiện. Đám người này và nhóm trung thành với thủ lĩnh hải tặc phát sinh mâu thuẫn kịch liệt, một trận đấu súng nổi lên, hầu như cả hai bên đều chết hết, thành trì trong động cũng bị cháy sạch, những người sống sót sau trận đấu súng cũng bị đám cháy thiêu rụi, người phụ nữ nhảy xuống biển tự tử theo chồng, chỉ còn lại đứa bé gái tròn hai tháng tuổi mà ông chủ Triệu bế trên tay. Ông ngồi thuyền chạy thoát khỏi đảo, từ đó giàu có, coi đứa bé như con đẻ của mình, chỉ biết thủ lĩnh hải tặc họ Đạm Đài, trong đêm ông bỏ chạy trăng sáng vằng vặc nên đặt tên cho đứa bé là Minh Nguyệt. Có thể nói, tính mệnh và của cải của ông đều do thủ lĩnh hải tặc ban tặng, nếu không có đứa bé này thì ông cũng không thể sống để rời khỏi hòn đảo đó. Đạm Đài Minh Nguyệt từ bé đã thích cưỡi ngựa săn bắn, có thể là di truyền từ bố. Ông chủ Triệu cũng không có cách nào mà quản được, nuông chiều hết mực, đòi trăng trên trời thì chẳng dám hái sao, chỉ còn cách mời thầy về dạy bắn cung, cưỡi ngựa, múa kiếm. Nhưng lần này là đối đầu với thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ, quá mạo hiểm. Ông nói với Dương Phương, nếu chuyến đi này ông có gì bất trắc, nhờ Dương Phương trông nom Đạm Đài Minh Nguyệt hộ ông. Vì ông linh cảm thấy điều không may, lại không thể giương mắt lên nhìn quốc bảo bị đánh cắp để đổi lấy vũ khí quân đội, đành phải đem thân liều mình vào chốn nguy hiểm.