Dường như rất lâu sau đó, tôi đột nhiên thấy cánh tay gày gò đặt trên ghế của bà nội khẽ động đậy. Tim suýt nữa thì nhảy vọt ra ngoài lồng ngực, tôi lập tức chạy đến quỳ xuống trước ghế salon, trên đường chạy đến đó chân đi giày cao gót bị trẹo mà tôi cũng không cảm thấy đau. Tôi nhẹ nhàng vỗ vỗ vào khuôn mặt bà, cố nén giọng lại cho đỡ khàn:
Bà ơi!”.
“Hử?”. Bà nội hơi hé mắt ra, trông khuôn mặt hoang mang và mệt mỏi, mái tóc đã chải gọn gàng hồi sáng nay giờ xõa ra rối bời, trên tráng loáng thoáng vệt mồ hôi.
“Bà làm sao thế? Làm cháu sợ chết khiếp!”. Tôi ôm lấy và, thần kinh đang căng ra bỗng nhiên được thả lỏng, một cảm giác tìm lại được sau khi đã mất. Khi vừa vào đến cửa, tôi còn tưởng rằng bà… Vừa ôm bà tôi vừa nghĩ, nếu như bà đi thật… Vội vàng xua đi cái ý nghĩ đó của mình, tôi không thể chấp nhận được việc bà gặp bất cứ sự cố nào, không cho phép bà bị nguy hiểm một chút nào, dù chỉ là trong suy nghĩ.
“Sao hả? Con bé ngốc! Chỉ là bà mệt quá nên dựa vào salon ngủ thiếp đi thôi”. Bà nội vò vò tóc tôi rồi mỉm cười. Trong mắt bà là niềm vui, nhưng cũng có cả một nỗi bi thương thoáng vụt qua.
“Nhưng sao bà lại thắp nhiều hương thế? Nghẹt thở lắm!”, tôi đứng dậy ngồi xuống cạnh bà.
“Không sao, chỉ vì bà thấy hơi buồn phiền, nên thắp vài nén thôi”, khi bà nói câu đó, tôi rõ ràng thấy trán bà hơi cau lại. Song khi quay sang thấy tôi nhìn chăm chú, bà lại khẽ cười:
“Con à, gần đây con căng thẳng quá đấy. Cứ thoải mái một chút đi, được không?”.
Tôi gật gật đầu, làm động tác duỗi lưng rồi cố ý nói với vẻ thoải mái:
“Mệt quá, cháu đi tắm đã nhé. Bà ơi, hình như gần đây bà không còn ưa sạch sẽ nữa hay sao ấy!”.
“Con bé ngốc!”. Bà gõ lên trán tôi.
Về phòng lấu quần áo ngủ rồi quay ra, khi cánh cửa phòng tắm khép lại sau lưng, tôi còn nghe thấy một tiếng thở dài già nua. Bà nội làm sao thế nhỉ?
Con ngõ chật hẹp, nước cống bộc lên mùi rau lá thối rữa, mùi nội tạng động vật và cả những thứ rác rưởi có người lười mang đi đổ, tiện tay vứt bừa ra. Mùi nước thối ấy lan tỏa trong cả con ngõ, làm người ta phát buồn nôn.
Nhà chúng tôi từng sống ở đây, một căn phòng cũ ở đường Cổ Bắc phía bắc thành phố. Tất cả ký ức đối với nó đều dừng lại năm tôi mười lăm tuổi. Sau này tôi thường lặng lẽ quay trở lại, đứng ở trên đường nhìn vào chiếc cửa sổ nhỏ mở ta ngoài mặt ngõ.
Căn phòng nhở tới mức u ám đó là phòng tôi, cầu thang dốc và hẹp, còn nhớ hồi nhỏ tôi thường bị lăn từ trên đó xuống. Mỗi lần như vậy ông tôi lại bế tôi lên rồi xoa xoa chỗ đau với vẻ thương xót: “Tiểu Ảnh, không đau nhỉ. Ngã một lần sẽ lớn lên một lần!”. Tôi thực sự đã lớn lên rồi, nhưng ông thì lại đi mất tích.
Giờ đâu khu nhà đó sắp bị dỡ bỏ rồi, sau này cũng sẽ không còn được nhìn thấy nữa. Hóa ra chủ hộ sống ở đây đã chuyển đi, đó là một đôi vợ chồng già, trước đây cũng là hàng xóm của chúng tôi, mười năm trước bà đã bán căn hộ cho họ.
Cửa không khóa, đẩy ra là có thể bước vào bên trong. Ở góc tường có hai chiếc ghế bang nho nhỏ, mặt ghế quét sơn dầu màu đen trơn bóng, trông giống như mặt gương mờ ảm đạm trong đêm. Ở đây gần như gia đình nào cũng đều có những chiếc ghế thấp như vậy, dùng để ngồi hóng mát trong mùa hè nóng nực. Khi còn nhở, trời vừa rối là tôi đã mang chiếc ghế đó ra ngồi trước cửa, còn bà nội thì mang quạt cói ra ngồi bên cạnh quạt muỗi cho tôi. Trước đây còn có một người kể chuyển sống ngay sát vách nhà tôi, những Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy Hử, Hồng lâu mộng đều được nghe từ ông ấy cả.
Tường đã có những vết loang lổ, màu vôi chỗ đậm chỗ nhạt, góc tường đầy mạng nhện. Đây từng là nơi chúng tôi đã sống hay sao? Người ưa sạch sẽ như bà năm đó làm sao chịu nổi chỗ này? Đi qua phòng chính, tôi lên cầu thang, vì đã nhiều năm nên cầu thang bằng gỗ phát ra những tiếng cọt kẹt khi giẫm chân lên, thậm chí còn hơi rung nhẹ, dường như bất kể lúc nào cũng có thể gãy ra vì không chịu nổi sức nặng, khiến người ta ngã chổng vó lên trời vậy.
Tay tôi đặt lên tay vịn cầu thang để giữ thăng bằng, khi còn hai bậc nữa, tôi chợt nghe thấy sau lưng có một tiếng thở dài khe khẽ, như có như không, song lại già nua và dài dằng dặc, nghe như âm cuối trong một giai điệu đầy bi thương được tấu lên bằng nhạc khí cổ xưa, mang theo nỗi buồn đau bất tận. Tôi quay đầu lại, không thấy có ai ở phía sau. Đến khi xoay người chuẩn bị đi lên tiếp thì tiếng thở dài ấy lại vang lên, lần này nghe rõ hơn lần trước. Vì mới rồi quay lại không nhìn thấy ai, nên tôi không tránh khỏi hoảng sợ trong lòng, bước chân trở lên bấn loạn, không để ý lên lăn từ cầu thang xuống…
Chật vật mãi mới đứng lên được, ngoài cái lưng đau điếng, ngón tay út cũng bị chà trên mặt sàn thô ráp nên xước thành mấy vệt, vài giọt máu rịn ra trên đó. Vết thương đó là đau nhất, như có gai đâm vào các vết nứt trong xương. Tôi hít một hơi khí lạnh, lại đi lên cầu thang, lần này thì cẩn thận hơn. Sau khi lập cập lên được trên tầng, thấy ánh sáng đang ùa vào qua cánh cửa sổ nhỏ xíu khiến không gian trong phòng sáng rõ hơn một chút.
Tôi chạm vào chiếc bàn học đã bị gãy mất một chân, trên mặt bàn vẫn còn hình mỹ nhân thời cổ mà tôi đã khắc lên đó. Ngón tay đặt trên khuôn mặt mỹ nhân rồi thuận chiều đi xuống dưới lướt qua từng nét một. Những ký ức thời thơ ấu giống như những đợt song công cào đã bị chộn vùi xuống lâu ngày chợt trào lên như tìm được lối thoát ra, ào ào cuộn lên trên mặt bể.
Đi tới bên cửa sổ, tôi cúi người xuống như hồi còn nhỏ vẫn hay thò đầu qua khung cửa sổ để nhìn bầu trời ở bên ngoài, chỉ có một vầng mặt trời cô đơn nhưng lại rạng ngoài đến chói mắt treo trên vòm trời ngoài đó. Tiếng thở dài khe khẽ lại vang lên, quen thuộc đến vậy. Tôi nhanh chóng thụt đầu vào, sợ nếu chậm sẽ bỏ lỡ điều gì đó. Vừa quay đầu đã nhìn thấy một ông già gày gò đứng ở đầu cầu thang, nhìn tôi với vẻ buồn thương khôn xiết.
Tôi nhớ ông là ai, dù rằng nhiều năm trôi qua nhưng vẫn nhớ ông là ai. Một niềm vui sướng bất ngờ ập đến tỏa lan đến từng góc nhỏ nhất trên cơ thể, tôi hét lên: “Ông nội!”.
Song ông không đáp lại, chỉ cau mày, rồi đột nhiên giãn đôi mày đang cau lại đó ra, đưa hai cánh tay về phía tôi, trong miệng khàn khàn như muốn nói điều gì nhưng chỉ phát ra được mấy tiếng “A…a…”. nhìn khẩu hình thì tôi biết là ông đang gọi tên tôi.
Tôi không thể kìm nổi ý muốn đi đến bên ông, lên tiếng hỏi: “Ông nội, ông sao thế?”, nhưng khi tôi vội vàng chạy tới đó thì ông lại đột nhiên biến mất. Tôi đứng nguyên tại chỗ hoảng hốt nhìn quanh tứ phía, đồ đạc trong phòng ít đến mức đáng thương, cũng không có chỗ nào có thể trốn vào, căn gác nhỏ xíu đã không còn hình bóng ông. Ông biến mất hoàn toàn như vây, dường như thứ mà tôi nhìn thấy mời rồi chỉ là cảnh ảo.
Khi biết không thể tìm thấy ông được nữa, tôi thấy đau lòng tới mức tuyệt vọng, ngồi sụp xuống ôm lấy thân mình muốn khóc nhưng không sao khóc được. Mắt vô tình nhìn lại nơi ông vừa đứng, thấy trên mặt đất có một mảnh giấy đã hơi ố vàng, bên trên là bảy chữ được viết theo lối chữ Khải trông mạnh mẽ “Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào”. Ở góc bên phải còn có hai chữ “Tần Tịnh” viết bằng bút chì nhạt tới mức gần như không thấy. So với bày chữ cứng cỏi viết bên trên thì hai chữ này được viết hết sức mềm mại, mềm tới mức khiến người ta cảm thấy có dư vị của một tình cảm dịu dàng, dù mềm mại nhưng nét bút vẫn cho thấy có cùng mạch nối với bảy chữ kia, do tay một người viết.
Lại một tiếng thở dàu, lần này không còn dài nữa mà ngắn và khàn. Tôi cầm mảnh giấy quay đầu lại, phát hiện ra ông nội lại đứng bên cửa sổ, vì ngược sáng nên tôi không thể nào nhìn rõ biểu cảm trên khuôn mặt ông.